Cho Vay Nhà Ở Xã Hội 4546
Theo Nghị định số 100 của Chính phủ, Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện lãi suất cho vay mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở từ mức 4,8%/năm lên 6,6%/năm từ ngày 01/8/2024. Mức vay này tương đương với lãi suất cho vay hộ nghèo hiện tại là 6,6%/năm.
Vì sao lãi vay mua nhà ở xã hội tăng thêm 1,8%/năm?
Trong công văn vừa gửi (ngày 1-8) chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội các tỉnh, thành phố, Ngân hàng Chính sách xã hội VN hướng dẫn lãi suất cho vay mua nhà ở xã hội (NƠXH) từ 1-8 sẽ nâng lên 6,6%/năm thay vì 4,8%/năm.
Lý giải có sự thay đổi này, Ngân hàng Chính sách xã hội VN cho hay nghị định số 100 năm 2024 quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về phát triển và quản lý NƠXH có hiệu lực thi hành từ ngày 1-8, thay thế nghị định số 100 năm 2015 và nghị định 49 năm 2021.
Nghị định 100 mới quy định đối với các khoản vay đã ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng chính sách xã hội để mua, thuê mua NƠXH, xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở trước ngày 1-8 thì áp dụng mức lãi suất cho vay bằng mức cho vay hộ nghèo do Thủ tướng quy định trong từng thời kỳ.
Do đó, theo Ngân hàng Chính sách xã hội VN, đối với các khoản vay đã ký hợp đồng tín dụng trước ngày 1-8-2024, ngân hàng chính sách xã hội (nơi cho vay) và người vay vốn thỏa thuận thống nhất trong phụ lục hợp đồng tín dụng.
Cụ thể, "lãi suất cho vay bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo do Thủ tướng quy định trong từng thời kỳ. Hiện nay, mức lãi suất cho vay là 6,6%/năm. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay", Ngân hàng Chính sách xã hội VN nhấn mạnh trong công văn và hướng dẫn thêm khi có sự thay đổi về lãi suất cho vay, lãi suất nợ quá hạn thì ngân hàng chính sách xã hội có trách nhiệm gửi thông báo cho người vay muộn nhất vào ngày đầu tiên của kỳ tính lãi liền kề.
Trao đổi với Tuổi Trẻ về căn cứ áp dụng mức lãi suất cho vay mua, thuê mua NƠXH, xây dựng hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở là 6,6%/năm, tăng thêm 1,8%/năm so với quy định liền kề, lãnh đạo Ngân hàng Chính sách xã hội VN cho biết đây là mức cho vay bằng với mức cho vay đối với hộ nghèo.
Khoản vay mua nhà, thuê NƠXH, xây, sửa chữa nhà để ở là khoản vay tiêu dùng, có thời hạn lên tới 25 năm, nên mức lãi vay này là hợp lý.
Mặt khác, theo vị lãnh đạo này, nguồn vốn cho vay được ngân hàng chính sách xã hội có một phần là đi vay trên thị trường rồi cho vay lại các đối tượng chính sách. Nếu lãi suất cho vay thấp quá thì ngân sách sẽ phải cấp bù mà ngân sách khó khăn lại còn phải hỗ trợ các đối tượng chính sách khác nữa. Như gói cho vay mua NƠXH này, vốn vay còn không đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của đối tượng chính sách.
Hiện người mua nhà ở xã hội (NƠXH) có thể tiếp cận vốn vay ưu đãi theo ba kênh:
Thứ nhất, vay từ ngân hàng chính sách xã hội với mức lãi vay ưu đãi bằng lãi vay áp dụng cho người nghèo vay trong từng thời kỳ. Dư nợ vay kênh này tính đến hết tháng 4-2024 là 16.903 tỉ đồng, cho hơn 44.000 khách hàng vay. Mức lãi vay trước 1-8 là 4,8%/năm, sau 1-8 là 6,6%/năm, Ngân hàng Nhà nước cấp bù chênh lệch lãi vay.
Thứ hai, vay từ gói tín dụng 120.000 tỉ đồng (hiện đã tăng lên 140.000 tỉ đồng) với lãi suất thấp hơn lãi thương mại của bốn ngân hàng thương mại nhà nước từ 1,5 - 2%. Tính đến hết tháng 6-2024 đã giải ngân được 1.344 tỉ đồng.
Thứ ba, các chương trình cho vay về nhà ở cho các đối tượng chính sách, tính đến hết tháng 4-2024 có dư nợ 4.823 tỉ đồng, cho 219.000 khách hàng vay.
Gói tín dụng ưu đãi đã là 140.000 tỉ đồng
Trong tờ trình vừa gửi tới Thủ tướng về triển khai cho vay nhà ở xã hội (NƠXH), Ngân hàng Nhà nước cho biết đến nay có tám ngân hàng tham gia gói tín dụng ưu đãi dành cho phát triển NƠXH.
Trong đó, bốn ngân hàng thương mại nhà nước là Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV cam kết cho vay 120.000 tỉ đồng, bốn ngân hàng thương mại cổ phần là VPBank, Techcombank, MBBank, Tienphongbank cũng đăng ký tham gia gói tín dụng ưu đãi, mỗi ngân hàng cam kết dành khoảng 5.000 tỉ đồng để cho vay ưu đãi. Như vậy, quy mô gói tín dụng ưu đãi 120.000 tỉ đồng cho phát triển NƠXH đã tăng lên 140.000 tỉ đồng.
Ngân hàng Nhà nước cho biết đã làm việc với tám ngân hàng và thống nhất tăng thời hạn cho vay ưu đãi của gói tín dụng 120.000 tỉ lên 10 năm.
Lãi suất cho vay trong thời gian ưu đãi trong 5 năm đầu thấp hơn 3% so với lãi suất cho vay trung, dài hạn bình quân của bốn ngân hàng thương mại nhà nước. Trong 5 năm tiếp theo lãi cho vay ưu đãi mua NƠXH sẽ thấp hơn từ 1 - 2%.
Nghị định số 100/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/8/2024 quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về phát triển và quản lý nhà ở xã hội (NOWXH), đã mang đến một loạt thay đổi đáng chú ý liên quan đến việc cho vay nhà ở xã hội. Một trong những thay đổi đáng chú ý là lãi suất cho vay được điều chỉnh theo mức lãi suất cho vay đối với hộ nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng thời kỳ. Mức lãi suất nợ quá hạn cũng được quy định là 130% so với lãi suất cho vay thông thường. Điều này có nghĩa rằng, với lãi suất cho vay hộ nghèo hiện tại là 6,6%/năm, lãi suất cho vay NƠXH tại NHCSXH đã tăng thêm 1,8% so với trước đây.
Theo Phó Tổng Giám đốc NHCSXH Huỳnh Văn Thuận, mức lãi suất cho vay này đã được cơ quan có thẩm quyền tổng kết, đánh giá, tính toán kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng Nghị định của Chính phủ; dự thảo Nghị định đã được lấy ý kiến tham gia rộng rãi của các Bộ, ngành, địa phương, người dân để hoàn thiện, thẩm định trước khi trình Chính phủ ban hành theo quy định.
Đánh giá về những điều chỉnh mới, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nhận định rằng việc phê duyệt mức lãi suất 6,6%/năm đã được cân nhắc kỹ lưỡng, nhằm đảm bảo cân đối nhiều yếu tố. Ông cho rằng chính sách này cần nhìn nhận từ góc độ ổn định và dài hạn, với thời hạn vay lên đến 25 năm.
Theo báo cáo của NHCSXH tính đến 31/7/2024, sau gần 10 năm triển khai thực hiện cho vay NƠXH theo Luật Nhà ở 2014, Nghị định số 100/2015/NĐ-CP, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP, NHCSXH đã giải ngân được 20.894 tỷ đồng cho hơn 49.000 khách hàng, dư nợ đạt 17.263 tỷ đồng với gần 46.000 khách hàng đang còn dư nợ. Nguồn vốn tín dụng chính sách về NƠXH đã góp phần giúp hơn 49.000 người thu nhập thấp, công nhân cùng gia đình có NƠXH và góp phần xây dựng hơn 49.000 căn nhà ở, ổn định “an cư, lạc nghiệp”, yên tâm lao động sản xuất, phát triển kinh tế.
Xem xét điều chỉnh phù hợp thực tiễn
Được tính toán kỹ lưỡng nhằm duy trì tính bền vững của chương trình và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, một số chuyên gia cũng nhấn mạnh sự cần thiết của một chính sách ổn định trong dài hạn.
TS Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia kinh tế đánh giá, mức lãi suất 6,6%/năm là tương đối hấp dẫn và nhấn mạnh cần cố định mức lãi suất này trong nhiều năm để tạo sự ổn định cho người vay. Ông Hiếu lấy ví dụ về lãi suất vay mua nhà tại Mỹ, nơi mức lãi suất có thể lên đến 7,5%/năm nhưng được cố định trong suốt 30 năm, giúp người vay có thể lên kế hoạch tài chính dài hạn mà không lo ngại về sự biến động của lãi suất.
Trước những ý kiến đa chiều liên quan đến việc điều chỉnh lãi suất cho vay NƠXH theo Nghị định số 100/2024/NĐ-CP, Phó Tổng giám đốc NHCSXH Huỳnh Văn Thuận khẳng định với vai trò là đơn vị triển khai thực hiện cho vay, NHCSXH sẽ tiếp thu các ý kiến để báo cáo các Bộ, ngành liên quan, từ đó báo cáo trình Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. NHCSXH cũng cam kết tiếp tục tập trung triển khai thực hiện chương trình cho vay NƠXH đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của Chính phủ tại Nghị định số 100/2024/NĐ-CP, trong đó có quy định về lãi suất cho vay.
Đối tượng được vay vốn ưu đãi để mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở theo Nghị định số 100/2024/NĐ-CP:
1. Người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ thuộc trường hợp được hỗ trợ cải thiện nhà ở theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng.
2. Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực nông thôn.
3. Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu.
4. Hộ gia đình nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị.
5. Người thu nhập thấp tại khu vực đô thị.
6. Công nhân, người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong và ngoài khu công nghiệp.
7. Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, công nhân công an, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng đang phục vụ tại ngũ; người làm công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu hưởng lương từ ngân sách nhà nước đang công tác.
8. Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức
(Nguồn: https://chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=210760)