Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng để con người giao tiếp với nhau. Học ngôn ngữ của người câm điếc sẽ đơn giản nếu bạn có cách học phù hợp. Bài viết  này, Travycare sẽ giới thiệu cho bạn, những cách học ngôn ngữ này hiệu quả.

Ký hiệu bảng chữ cái của người câm điếc

Dưới đây là bảng ký hiệu chữ cái từ A đến Z kèm ký hiệu các số từ 1 đến 9 bạn có thể tham khảo:

Ký hiệu bảng chữ cái cho người câm điếc

Ngôn ngữ của người câm điếc được gọi là gì?

Ngôn ngữ của người câm điếc thường được gọi là "Ngôn ngữ Ký hiệu" hoặc "Ngôn ngữ Ký hiệu Mùa hè." Đây là một hệ thống giao tiếp bằng cách sử dụng các ký hiệu hoặc cử chỉ để diễn đạt ý nghĩa. Một trong những hệ thống ký hiệu phổ biến là Hệ thống Ký hiệu Mùa hè Hoa Kỳ (ASL - American Sign Language) ở Hoa Kỳ và một số hệ thống khác trên thế giới.

Giới thiệu về ngôn ngữ của người câm điếc

Người câm điếc sử dụng nhiều hình thức giao tiếp không dựa vào âm thanh, mà thay vào đó, họ phát triển các hệ thống ngôn ngữ dựa trên cử chỉ, hình ảnh và các biểu hiện khuôn mặt. Dưới đây là những hạn chế về mặt ngôn ngữ của người câm điếc:

Trong những năm gần đây mọi người đang tiến hành để tăng cường nhận thức và hỗ trợ cho cộng đồng người câm điếc. Việc tạo ra môi trường học tập và làm việc thân thiện, cũng như việc cung cấp thông tin và giáo dục bằng ngôn ngữ ký hiệu đều đang giúp giảm bớt những hạn chế mà họ gặp phải.

Cách học ngôn ngữ của người câm điếc hiệu quả nhất

Cách học ngôn ngữ của người câm điếc hiệu quả nhất là thông qua phương pháp học giao tiếp không ngôn ngữ (Non-Verbal Communication). Dưới đây là quy trình học ngôn của người câm điếc hiệu quả nhất bạn có thể tham khảo:

Một cách học tốt nhất là tham gia vào cộng đồng ngôn ngữ ký hiệu

Ngôn ngữ của người câm điếc là ngôn ngữ gì?

Ngôn ngữ của người câm điếc là hệ thống ký hiệu được sử dụng bằng tay và các bộ phận khác trên cơ thể để thể hiện ý nghĩa của các từ, câu. Ngôn ngữ của người câm điếc, cũng có những nguyên tắc ngữ pháp riêng được gọi là ngôn ngữ ký hiệu. Ngôn ngữ ký hiệu có thể được sử dụng để giao tiếp giữa người câm điếc với nhau, và với những người bình thường.

Bảng ký hiệu chữ cái dành cho người câm điếc

Có rất nhiều loại ngôn ngữ câm điếc trên thế giới, mỗi loại ngôn ngữ tương ứng với một cộng đồng người câm điếc riêng. Chẳng hạn như ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam (Việt ngữ), ngôn ngữ ký hiệu Trung Quốc (CSL), ngôn ngữ ký hiệu Nhật Bản (JSL),.ngôn ngữ ký hiệu Mỹ (ASL), ngôn ngữ ký hiệu Pháp (LSF), ngôn ngữ ký hiệu Anh (BSL),...

Lưu ý khi học ngôn ngữ của người câm điếc

Chọn loại ngôn ngữ ký hiệu phù hợp: Có nhiều loại ngôn ngữ ký hiệu khác nhau, mỗi loại ngôn ngữ tương ứng với một cộng đồng người câm điếc riêng. Người học cần chọn loại ngôn ngữ ký hiệu phù hợp với nhu cầu của mình. Ví dụ, người học có thể học ngôn ngữ quốc tế (ISL), và ngôn ngữ ký hiệu tại ngôn ngữ địa phương mình, để có thể giao tiếp với nhiều đối tượng.

Học từ vựng và ngữ pháp cơ bản: Trước khi học các kiến thức nâng cao, người học cần nắm vững các từ vựng và ngữ pháp cơ bản của ngôn ngữ ký hiệu. Có thể tìm hiểu các từ vựng và ngữ pháp cơ bản thông qua các tài liệu tham khảo, các video hướng dẫn, hoặc tham gia các khóa học ngắn hạn về ngôn ngữ ký hiệu.Người học, cũng có thể sử dụng nhiều phương pháp trực quan, dùng hình ảnh, hoặc ghi nhớ ngắt quãng, thực hành có chủ đích để có thể nhớ từ vựng lâu và hiệu quả hơn.

Hãy mạnh dạn hỏi đáp khi gặp khó khăn trong học ngôn ngữ của người câm điếc

Không nên ngại ngần hỏi đáp: Khi gặp khó khăn, người học không nên ngại ngần hỏi đáp giáo viên hoặc những người đã biết ngôn ngữ ký hiệu. Giáo viên hoặc những người đã biết ngôn ngữ ký hiệu có thể giúp người học giải đáp thắc mắc và hiểu rõ hơn về ngôn ngữ ký hiệu.Việc hỏi khi gặp vấn đề sẽ giúp người học giải quyết được những khúc mắc, tránh mắc những sai lầm, hoặc hiểu sai ngôn ngữ. Như vậy, cũng sẽ giúp tiết kiệm thời gian của người học, khi học hỏi từ những người đã có kinh nghiệm trước.

Tham gia các hoạt động giao tiếp: Tham gia các hoạt động giao tiếp với người câm điếc là cách tốt nhất để người học có thể luyện tập và sử dụng ngôn ngữ ký hiệu một cách thành thạo. Có thể tham gia các câu lạc bộ, nhóm học ngôn ngữ ký hiệu, hoặc các hoạt động xã hội của người câm điếc.Tham gia cộng đồng những người học ngôn ngữ câm điếc cũng giúp bạn có môi trường tốt để thực hành và có động lực hơn để học.

Học ngôn ngữ của người câm điếc là một hành động ý nghĩa và cần thiết, không chỉ mang lại lợi ích cho người câm điếc và cả người nghe được. Hãy cùng Travycare học ngôn ngữ này để chung tay góp phần giúp người câm điếc có thể giao tiếp hiệu quả và hòa nhập tốt hơn với cộng đồng.

“Không chỉ các vùng miền Nam, Trung, Bắc mà ngay cả ký hiệu ngôn ngữ dành cho trẻ câm điếc trong cùng TP.HCM cũng khác nhau. Điều này ai cũng biết, cũng thấy nhưng đến nay vẫn chưa thể thống nhất được” - bà Trần Thị Nhiễu, chuyên viên phụ trách các dự án thuộc Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi TP.HCM, nhìn nhận.

Tại Trường Chuyên biệt khiếm thính Hy Vọng (Bình Thạnh, TP.HCM), ký hiệu cụm từ thêm vào cho đầy đủ được một em học sinh diễn tả theo từng chữ thêm, vào, cho, đầy đủ. Để diễn tả từ thêm, lòng bàn tay trái em để ngửa trước bụng, lòng bàn tay phải đập đập lên. Chữ vào thì lòng bàn tay trái cũng để ngửa trước bụng, ngón trỏ tay phải hướng vào trong. Lòng bàn tay trái cũng để ngửa trước bụng, lòng tay phải để ngửa đưa về phía trước là chữ cho. Còn đầy đủ thì các ngón tay phải bụm lại, riêng ngón tay trỏ giơ cao nhưng cong lại, tượng trưng cho chữ đ.

Riêng cụm từ ngộ độc thực phẩm, em cũng diễn tả ký hiệu từng chữ. Diễn tả từ ngộ, em hơi chụm bàn tay trái và bàn tay phải lại, để trước bụng rồi xoay xoay. Còn từ độc thì chụm bàn tay phải lại, ngón giữa hơi nhô và đặt lên cằm. Hai chữ thực phẩm được em diễn tả bằng ký hiệu chữ t và p.

Trong khi đó, cụm từ thêm vào cho đầy đủ được một học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Anh Minh (Bình Thạnh) diễn tả khác ở chữ vào và cho. Riêng cụm từ ngộ độc thực phẩm thì không diễn tả riêng từng chữ mà thực hiện cùng lúc ba động tác. Em đưa hai bàn tay ra trước, các đầu ngón tay chụm lại, tượng trưng chén cơm. Tiếp theo, một tay em đặt ngửa trước ngực, tay còn lại đưa vào miệng như đang ăn cơm. Sau đó em đặt ngón tay trỏ lên môi, hàm ý cho biết bị ngộ độc sau khi ăn cơm.

Ký hiệu ngôn ngữ không thống nhất

Sau khi nghe chúng tôi thuật lại những ký hiệu ngôn ngữ của cụm từ thêm vào cho đầy đủ và ngộ độc được học sinh hai trường nói trên diễn tả, cô Trần Thị Ngời, Hiệu trưởng Trường Khuyết tật thính giác Hy Vọng 1 (quận 1, TP.HCM), nói: “Ký hiệu ngôn ngữ trường tôi cũng khác”.

Học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Hy Vọng diễn tả ký hiệu từ “vào”...

... Khác với ký hiệu ngôn ngữ của  học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Anh Minh.

Từ “độc” trong cụm từ “ngộ độc thực phẩm” được học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Hy Vọng diễn tả...

... Không giống với học sinh Trường Chuyên biệt khiếm thính Anh Minh. Ảnh: TRẦN NGỌC

“Trước giải phóng, miền Nam có trường dạy trẻ câm điếc ở Lái Thiêu (Bình Dương) và tôi là giáo viên của trường này. Đến năm 1985, tôi mở trường dạy trẻ câm điếc đầu tiên ở TP.HCM và phổ biến những ký hiệu ngôn ngữ cho giáo viên. Sau đó TP.HCM mở thêm nhiều trường dành cho trẻ câm điếc, đón nhận sự hỗ trợ của những tổ chức ngoài nước. Các trường cóp nhặt ký hiệu ngôn ngữ của họ rồi áp dụng. Tình trạng này kéo dài nên hiện nay nhiều ký hiệu ngôn ngữ cho trẻ câm điếc không thống nhất nhau” - cô Ngời nói.

Theo cô Ngời, một giáo viên dạy trẻ câm điếc trường này khi qua trường khác phải được tập huấn lại ký hiệu ngôn ngữ mới có thể tiếp tục đứng lớp. Các em câm điếc của các vùng, miền muốn giao lưu và hiểu nhau phải tốn khá nhiều thời gian.

Nhiều hội thảo nhằm đưa ra một ký hiệu ngôn ngữ thống nhất để dạy các em câm điếc đã được tổ chức nhưng vẫn chưa thành công. Trong đó có nguyên nhân do thói quen của từng vùng, miền. “Ví dụ, ký hiệu ngôn ngữ từ chào. Các đại biểu không đồng tình ký hiệu “giơ tay” của Hà Nội hoặc “giở nón” của Hải Phòng mà lại đồng thuận ký hiệu “khoanh tay cúi đầu” của TP.HCM và thống nhất lấy làm ký hiệu chung để sử dụng khi giảng dạy. Thế nhưng trong thực tế, do thói quen nên các vùng vẫn sử dụng ký hiệu của mình, ít dùng ký hiệu chung” - cô Ngời nói rõ.

Gắn bó nhiều năm với trẻ em khuyết tật, trong đó có cả trẻ câm điếc, bà Trần Thị Nhiễu cho biết ngoài những ký hiệu từ ngữ trừu tượng khác nhau như nói ở phần trên, những ký hiệu từ ngữ cụ thể của con người cũng khác nhau. Nói đến đàn ông, có em diễn tả hai ngón tay đặt dưới cổ áo ám chỉ chiếc cà vạt. Cũng có em đặt hai ngón tay trỏ trên miệng, hàm ý nói bộ râu. Nói đến phụ nữ, có em đặt hai ngón tay lên lỗ tai hàm ý đeo bông tai. Cũng có em xoa xoa đôi môi, ám chỉ đang tô son.

Theo bà Nhiễu, các em bị câm điếc đã là một thiệt thòi, lại không được hướng dẫn chung một giáo trình ký hiệu ngôn ngữ để dễ dàng giao tiếp, dễ dàng nắm bắt những kiến thức mới mẻ là thiệt thòi thứ hai. “Do vậy, cho dù khó khăn cũng phải xây dựng được giáo trình hướng dẫn ký hiệu ngôn ngữ chung cho trẻ câm điếc để các em dễ hòa nhập cộng đồng” - bà Nhiễu nêu quan điểm.

Ngay cả tôi, mặc dù là giáo viên câm điếc đã lâu nhưng cũng không hiểu hết nội dung diễn đạt của cô “thông dịch viên” ngôn ngữ câm điếc trong chương trình thời sự của kênh VTV.

Một khi không hiểu nội dung diễn đạt thì các em câm điếc sẽ rất khó tiếp cận những vấn đề xã hội. Vì vậy đã có những trường hợp đáng tiếc liên quan đến trẻ câm điếc vi phạm pháp luật. Cách đây không lâu, một phóng viên gọi điện thoại nói với tôi rằng người “thông dịch viên” do hiểu không đúng ký hiệu ngôn ngữ của một trẻ câm điếc nên em này đã bị tòa buộc tội nặng hơn. Riêng tôi, không ít lần phải mang theo nhiều giấy, bút vào tòa khi làm “thông dịch viên” cho trẻ câm điếc để vẽ hình minh họa trong trường hợp cần thiết.

Cô TRẦN THỊ NGỜI, Hiệu trưởng Trường Khuyết tật thính giác Hy Vọng 1 (TP.HCM)

Ký hiệu ngôn ngữ người câm điếc từng vùng, miền không do ai nghĩ ra mà là phát triển một cách tự nhiên bao năm trời từ những người câm điếc nên muốn thống nhất chung là rất khó. Không thể buộc người câm điếc vùng, miền này phải theo ký hiệu ngôn ngữ người vùng, miền nọ. Ở người bình thường, ngay cả cách phát âm giữa các vùng, miền cũng khác nhau.

Ngay cả nước ngoài cũng dùng ký hiệu ngôn ngữ biến thể chứ chưa thể sử dụng bộ ký hiệu ngôn ngữ chung dành cho người câm điếc. Nhưng nếu có một bộ ký hiệu ngôn ngữ thống nhất chung dành cho người câm điếc tại Việt Nam sẽ là cần thiết để giúp họ dễ hòa nhập cộng đồng.

GS-TS NGUYỄN VĂN HIỆP, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam

Do không được giáo dục giới tính, không được hướng dẫn kỹ năng sống nên trẻ câm điếc rất dễ bị xâm hại. Để bảo vệ các em, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi TP.HCM kết hợp cùng các ban, ngành liên quan xây dựng Cẩm nang ngôn ngữ, cử chỉ về giới tính tình dục và sức khỏe sinh sản. Cẩm nang này sẽ thống nhất các ký hiệu ngôn ngữ, cử chỉ để giáo viên dễ hướng dẫn, các em câm điếc dễ tiếp thu. Dự kiến năm nay sẽ triển khai thực hiện những nội dung trong cẩm nang.

Bà TRẦN THỊ NHIỄU, chuyên viên phụ trách các dự án thuộc Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi TP.HCM

Trong cuộc sống, có ai từng suy nghĩ rằng những người câm nói như nào cho mọi người hiểu và họ có ngôn ngữ riêng của mình không. Bài viết này, Travycare sẽ cùng các bạn tìm hiểu tất cả Những điều cần biết về ngôn ngữ của người câm điếc xem có gì đặc biệt nhé!